Truyền thông dự thảo chính sách

NỘI DUNG

    Sự cần thiết phải sửa đổi Luật Đấu giá tài sản

    Luật Đấu giá tài sản và các Nghị định, thông tư hướng Luật Đấu giá tài sản của Trung ương cơ bản đã đáp ứng được công tác quản lý nhà nước đối với việc đấu giá tài sản cũng như tạo điều kiện, hành lang pháp lý phục vụ việc thực hiện đấu giá tài sản của các tổ chức đấu giá tài sản, là cơ sở để người có tài sản tham gia giám sát, kiểm tra việc đấu giá tài sản.

    Tuy nhiên, đến nay sau hơn 05 năm thực hiện hiện Luật Đấu giá tài sản, nhận thấy Luật Đấu giá tài sản đã có sự bất cấp như:

    - Tại điểm d khoản 2 Điều 9 Luật Đấu giá tài sản và khoản 3 Điều 7 Quy tắc đạo đức nghề nghiệp đấu giá viên ban hành kèm theo Thông tư số
    14/2018/TT-BTP ngày 16/10/2018 của Bộ Tư pháp quy định nghiêm cấm tổ chức đấu giá để lộ thông tin về người đăng ký tham gia đấu giá. Tuy nhiên, Điều 58 Luật Đất đai năm 2013; Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai quy định: “…Trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất thì thời điểm thẩm định được thực hiện trước khi tổ chức phiên đấu giá quyền sử dụng đất”, căn cứ quy định trên trước khi tổ chức đấu giá phải gửi hồ sơ hoặc mời các sở, ngành liên quan đến thẩm định điều kiện người tham đấu giá trước khi tổ chức đấu giá, như vậy có thể dẫn đến thông tin về người đăng ký tham gia đấu giá bị lộ.

    - Theo quy định tại Điều 72 Luật Đấu giá tài sản quy định các trường hợp hủy kết quả đấu giá tài sản không quy định trường hợp hủy kết quả trúng đấu giá tài sản đối với trường hợp người trúng đấu giá không nộp hoặc không nộp đủ tiền trúng đấu giá theo quy định.

    Tuy nhiên, theo quy định pháp luật đất đai, cụ thể tại điểm d khoản 5 Điều 68 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều, khoản của Luật Đất đai (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 21 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020) quy định trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất đã giải phóng mặt bằng đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất “Trường hợp người trúng đấu giá không nộp tiền hoặc không nộp đủ tiền theo đúng phương án đấu giá quyền sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hủy quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.” nên đã gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước khi áp dụng các quy định pháp luật đối với việc xử lý trường hợp chậm nộp tiền trúng đấu giá quyền sử dụng đất tại địa phương.

    - Đối với Luật Đấu giá tài sản và các quy định quản lý, sử dụng tài sản công: Tại Điều 59 Luật Đấu giá tài sản quy định: “Việc đấu giá tài sản trong
    trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá, một người tham gia đấu giá, một người trả giá quy định tại Điều 49 của Luật này không áp dụng đối với các tài sản sau đây: Tài sản nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước”. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 25 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản công quy định: “Bán cho người duy nhất trong trường hợp khi đã hết thời hạn đăng ký tham gia mà chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng chỉ có một người tham gia cuộc đấu giá hoặc có nhiều người tham gia cuộc đấu giá nhưng chỉ có một người trả giá hoặc có nhiều người trả giá nhưng chỉ có một người trả giá cao nhất và trả giá ít nhất bằng giá khởi điểm khi đấu giá từ lần thứ hai trở lên”.

    - Luật Đấu giá tài sản và Nghị định số 22/2012/NĐ-CP ngày 26/3/2012 của Chính phủ quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản chưa thống nhất trong việc tổ chức đấu giá: Theo Luật Đấu giá tài quy định tổ chức đấu giá tài sản bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày.

    Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 19 Nghị định số 22/2012/NĐ-CP ngày 26/3/2012 quy định: ‘‘Trong thời gian không quá 30 (ngày) kể từ ngày hết hạn tiếp nhận hồ sơ đề nghị tham gia đấu giá, cơ quan tiếp nhận hồ sơ đấu giá phải hoàn thành phương án xét chọn hồ sơ của tổ chức, cá nhân đề nghị tham gia phiên đấu giá và báo cáo Chủ tịch Hội đồng đấu giá;

    Ngoài ra, chưa có quy định về việc hoàn trả lại tiền trúng đấu giá quyền khai thác khoáng sản với trường hợp là tổ chức, cá nhân trúng đấu giá nhưng không thể tự thỏa thuận với chủ sử dụng đất để triển khai dự án khai thác khoáng sản đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng xây dựng thông thường không thuộc đối tượng nhà nước thu hồi đất (theo Luật đất đai).

    Bên cạnh đó, Luật Đấu giá tài sản đã có những bất cập như:

    - Khoản 2 Điều 38 Luật quy định: Tổ chức đấu giá tài sản tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày;  Khoản 2 Điều 39 Luật quy định: Tổ chức đấu giá tài sản chỉ được thu tiền đặt trước của người tham gia đấu giá trong thời hạn 03 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá. Với các quy định nêu trên khi hết hạn tiếp nhận hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, người đăng ký vẫn có thể nộp tiền đặt trước vào 02 ngày sau đó vì vậy quá trình triển khai thực hiện còn có tình trạng nhiều khách hàng đã đăng ký tham gia đấu giá mà chưa nộp tiền đặt trước có thể thông đồng, thoả thuận với nhau, sau đó chỉ có 1 hoặc vài người nộp tiền đặt trước để mua tài sản, những người khác không nộp tiền đặt trước chỉ bị mất tiền mua hồ sơ tham gia đấu giá. Đồng thời, người đăng ký tham gia đấu giá được nộp tiền đặt trước đến cuối ngày trước ngày mở cuộc đấu giá dẫn đến tình trạng không xác định được chắc chắn số người tham gia đấu giá.

    Khoản 1 Điều 43 Luật quy định: “Khi đăng ký tham gia đấu giá, người tham gia đấu giá được nhận phiếu trả giá, hướng dẫn về cách ghi phiếu, thời hạn nộp phiếu trả giá và buổi công bố giá …”, tuy nhiên Luật không quy định rõ khách hàng có thể nộp phiếu trả giá trong thời hạn nào.

     Về đăng ký hoạt động và thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Chi nhánh tổ chức đấu giá: đối với Chi nhánh của tổ chức đấu giá tài sản Luật chỉ quy định về đăng ký hoạt động tại Điều 29 mà không quy định về thay đổi nội dung đăng ký hoạt động. Điều này, gây khó khăn cho các tổ chức đấu giá khi cần thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Chi nhánh./.

    Phạm Thị Bình - Sở Tư pháp

     

    Lượt xem: 84

    © 2020 - Sở Tư Pháp Tỉnh Đồng Nai

      Lượt truy cập:     1,810